Khấu trừ thuế GTGT đối với trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên
Ngày 03/01/2017, Tổng cục Thuế đã ban hành công văn số 06/TCT-CS hướng dẫn về chính sách thuế GTGT đối với trường hợp mua hàng trả chậm trả góp nhưng thanh toán sau hoặc quá hạn thanh toán trên hợp đồng.
Theo đó:
1. Tại thời điểm doanh nghiệp mua hàng hóa dịch vụ nhưng chưa thực hiện thanh toán thì vẫn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
2. Chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
3. Đến thời hạn thanh toán ghi trong hợp đồng Doanh nghiệp không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng (do chưa thanh toán) thì doanh nghiệp vẫn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào và chưa phải điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã kê khai khấu trừ.
4. Nhưng đến khi thanh toán thực tế, Doanh nghiệp không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng (thanh toán bằng tiền mặt) thì Doanh nghiệp phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ tương ứng với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán thực tế.
Công ty đào tạo Kế Toán Thiên Ưng xin được trích dẫn toàn bộ công văn số 06/TCT-CS để các bạn tham khảo như sau:
BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
———-
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————
|
Số: 06/TCT-CS
V/v: chính sách thuế.
|
Hà Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2017
|
Kính gửi: Cục Thuế tỉnh Hà Tĩnh.
Trả lời công văn số 2140/CT-THNVDT ngày 12/10/2016 của Cục Thuế tỉnh Hà Tĩnh về vướng mắc về chính sách thuế GTGT, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Điều 10, Thông tư 151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014, sửa đổi, bổ sung điểm c Khoản 3 Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC; Tại điểm c khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc thanh toán hàng hóa trả chậm như sau:
“c) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp khi thanh toán, cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ).”
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đến thời hạn thanh toán ghi trong hợp đồng cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh chưa phải điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã kê khai khấu trừ đến khi thanh toán thực tế, cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ tương ứng với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán thực tế.
Tổng cục Thuế có ý kiến Cục Thuế tỉnh Hà Tĩnh được biết./.
Nơi nhận:
– Như trên;
– PTCT Cao Anh Tuấn (để b/c);
– Vụ PC – BTC;
– Vụ PC, KK&KTT – TCT;
– Lưu: VT, CS (3).
|
TL. TỔNG CỤC TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ CHÍNH SÁCH
Lưu Đức Huy
|
|
Sở dĩ kế toán hay băn khoăn thắc mắc: Mua hàng chưa thanh toán có được khấu trừ thuế GTGT không? Thanh toán trả chậm quá hạn sau thời hạn của hợp đồng có được khấu trừ thuế GTGT đầu vào nữa không?
Là do: Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 15 của Thông tư số 219/2013/TT-BTC thì:
“Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, đồng thời ghi rõ thời hạn thanh toán vào phần ghi chú trên bảng kê hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc trước ngày 31 tháng 12 hàng năm đối với trường hợp thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31 tháng 12, cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm đối với trường hợp thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31 tháng 12, nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ của giá trị hàng hóa không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Sau khi cơ sở kinh doanh đã điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ tương ứng với giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng, cơ sở kinh doanh mới có được chứng từ chứng minh việc thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh được khai bổ sung.
Trường hợp đã quá hạn thanh toán chậm trả theo quy định trong hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm, cơ sở kinh doanh không thực hiện điều chỉnh giảm theo quy định nhưng trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định kiểm tra tại trụ sở, cơ sở kinh doanh có đầy đủ chứng từ chứng minh đã thanh toán qua ngân hàng thì nếu việc không điều chỉnh giảm không dẫn đến thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn thì cơ sở kinh doanh bị xử phạt vi phạm về thủ tục thuế, nếu việc không điều chỉnh giảm dẫn đến thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn thì cơ sở kinh doanh bị truy thu, truy hoàn và xử phạt theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Trường hợp cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra, thanh tra tại trụ sở và có quyết định xử lý không chấp nhận cho khấu trừ thuế đối với các hóa đơn GTGT không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng, sau khi có quyết định xử lý của cơ quan thuế cơ sở kinh doanh mới có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì:
– Đối với các hóa đơn GTGT cơ sở kinh doanh đã điều chỉnh giảm trước khi cơ quan thuế đến thanh tra, kiểm tra thì cơ sở kinh doanh được khai bổ sung thuế GTGT.
– Đối với các hóa đơn GTGT cơ sở kinh doanh đã không điều chỉnh giảm trước khi cơ quan thuế đến thanh tra, kiểm tra thì cơ sở kinh doanh được khai bổ sung nếu có chứng từ thanh toán qua ngân hàng trong thời hạn 6 tháng kể từ tháng có Quyết định xử lý của cơ quan thuế.“
Nhưng hiện nay thì điểm c khoản 3 Điều 15 của Thông tư số 219/2013/TT-BTC đã được sửa đổi bổ sung tại Điều 10 Thông tư 151/2014/TT-BTC và được hướng dẫn cụ thể tại Tại điểm c khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc thanh toán hàng hóa trả chậm.
Như vậy, Theo quy định về điều kiện khấu trừ thuế GTGT mới nhất hiện nay thì:
Đối với hàng hóa mua trả chậm, trả góp, doanh nghiệp được kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào trước khi có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
Thậm chí, đến thời hạn thanh toán quy định trong hợp đồng, nếu doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì vẫn được khấu trừ.
Việc điều chỉnh giảm thuế GTGT được khấu trừ chỉ bắt buộc khi doanh nghiệp đã thực hiện việc thanh toán nhưng không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Kỳ kê khai giảm thuế GTGT được khấu trừ là kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán thực tế.
Công văn số 1634/TCT-CS ngày 25/4/2017 của Tổng cục Thuế về chứng từ thanh toán đối với mua hàng trả chậm đã phân biệt rõ ràng mốc thời gian về Chính sách khấu trừ thuế GTGT hàng mua trả chậm, trước và sau 15/11/2014 như sau:
(Nguồn ảnh: luatvietnam.net)
Theo đó, trước ngày 15/11/2014, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 209/2013/NĐ-CP, nếu đến thời điểm thanh toán hàng mua trả chậm theo hợp đồng mà doanh nghiệp không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào và phải kê khai giảm số thuế đã khấu trừ.
Tuy nhiên, kể từ ngày 15/11/2014, Nghị định 91/2014/NĐ-CP đã sửa đổi quy định nêu trên theo hướng miễn yêu cầu doanh nghiệp phải kê khai giảm thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ khi đến hạn thanh toán nếu chưa có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt do thực tế chưa thanh toán. Việc kê khai giảm số thuế GTGT đã khấu trừ chỉ bắt buộc khi doanh nghiệp thực hiện thanh toán bằng tiền mặt hoặc các hình thức khác không được xem là thanh toán qua ngân hàng.